Giới thiệu Sách - Sử ký Tư Mã Thiên - Bản dịch quốc ngữ đầu tiên năm Giáp Thân (1944) - Tư Mã Thiên
SỬ KÝ
Bản dịch quốc ngữ đầu tiên năm Giáp Thân (1944)
Tác giả: Tư Mã Thiên
Nhượng Tống dịch văn
Lâm Tây Trọng bình giảng
Nguyễn Duy Long hiệu khảo
Tên sách: SỬ KÝ – BẢN DỊCH QUỐC NGỮ ĐẦU TIÊN NĂM GIÁP THÂN (1944)
Thể loại: Lịch sử
Tác giả: Tư Mã Thiên; Lâm Tây Trọng bình giảng
Nhượng Tống dịch văn; Nguyễn Duy Long hiệu khảo
Khổ sách: 14.5 x 20.5 cm
Loại bìa: bìa mềm
Số trang: 592
Giá bìa: 132.000
Đơn vị liên kết: BachVietBooks & NXB Văn Học
Thời gian phát hành: Tháng 7/2021
2. NỘI DUNG CUỐN SÁCH
Sử ký của Tư mã Thiên
Sử ký của Tư Mã Thiên là cả một thế giới. Tác phẩm vĩ đại này ghi lại lịch sử Trung Hoa trên dưới hai ngàn năm, từ thời Hoàng Đế trong huyền thoại đến vua Hiếu Vũ nhà Tây Hán. Bất luận là ai, chỉ cần đọc Sử ký đều sẽ tìm được cho mình những giá trị lịch sử, văn chương, tư tưởng… vượt thời gian.
Sử gia Ban Cố nhận xét cách viết Sử ký là “bày sắp lẽ việc thì biện bác mà không phù hoa, mộc mạc mà không quê mùa. Văn viết thẳng. Việc chép đúng. Không khen hão. Không giấu lỗi. Cho nên gọi là thực lục.”
Bản dịch của Nhượng Tống năm 1944
Bản dịch của Nhượng Tống năm 1944 là bản dịch ra quốc ngữ có hệ thống đầu tiên tại Việt Nam. Bản dịch này chẳng những được văn đàn đánh giá cao về khả năng chuyển ngữ điêu luyện mà còn có ảnh hưởng cực kỳ to lớn đối với hai bản dịch sau đó: Bản dịch của Nhữ Thành (Phan Ngọc) gần như tiếp nối văn phong của Nhượng Tống và bản dịch của nhóm Giản Chi – Nguyễn Hiến Lê cố gắng học theo phong cách của Nhượng Tống.
Bản dịch “Sử ký” năm 1944 không chia ra thành các phần Bản kỷ, Biểu, Thư, Thế gia, Liệt truyện nhưng lại có dịch ít nhiều trong cả năm phần đó. Tổng cộng có sự xuất hiện của 02 bản kỷ, 04 biểu, 01 thư, 08 thế gia và 21 liệt truyện, đa phần là trích dịch.
Lần tái bản này có hiệu đính nhiều chỗ lầm lẫn, sao phỏng quá đà ngữ pháp Hán văn, sắp xếp lại các phần cho dễ đọc, thêm nhiều phụ chú để làm rõ nghĩa và đặc biệt có chỉ ra những văn bản nguồn mà dịch giả đã sử dụng.
3. THÔNG TIN TÁC GIẢ
Tư Mã Thiên (145 TCN – ?)
Tư Mã Thiên, tự Tử Trường, làm chức Thái sử thời vua Hiếu Vũ nhà Hán.
Bị mắc vạ Lý Lăng (99 TCN), ông mang tội chết nhưng không có đủ tiền chuộc thân, cho nên chọn cách chịu thiến để giữ mạng để còn tiếp tục hoài bão làm sách sử. Cũng “nhờ” đó, ông được ra vào cung cấm, gần gũi nhà vua, xem ghi chép mật… Nhưng bởi mang cái danh “kẻ bị dao thẻo”, Tử Trường tủi nhục khôn cùng, bèn dồn hết tâm huyết làm nên bộ sách sử truyền đến ngày nay. Người ta vẫn gọi sách đó là Thái sử công thư hoặc Sử ký.
Lâm Tây Trọng (1628 – 1687)
Một viên quan dưới triều Thanh ở bên nước Tàu. Ông có nhiều tác phẩm nổi tiếng, trong đó tiêu biểu nhất là luận giải Nam Hoa Kinh. Lâm Tây Trọng từng được Viên Mai nhắc đến trong Tử bất ngữ, còn cuốn Trang Tử nhân của ông cũng được Tào Tuyết Cần nhắc đến trong hồi 21 của Hồng lâu mộng, đủ để thấy độ nổi tiếng của nhân vật này lúc bấy giờ.
Lâm Tây Trọng từng bình giảng và chú thích một phần Sử ký trong cuốn sách mang tên Cổ văn tích nghĩa.
3. THÔNG TIN NGƯỜI DỊCH VÀ HIỆU KHẢO
Nhượng Tống (1904 – 1949)
Hoàng Phạm Trân, bút danh Nhượng Tống, Mạc Bảo Thần, là một nhà văn, nhà báo, nhà cách mạng nhưng nổi tiếng nhất là một dịch giả tài hoa của thế kỷ trước.
Năm 1929, Nhượng Tống bị Pháp bắt và bị đày ra Côn Đảo. Năm 1933, ông được tha, từ đó chuyên tâm vào sáng tác và dịch thuật. Hoàng Phạm Trân để lại nhiều tác phẩm có giá trị, trong số đó thì các bản dịch của ông vẫn được coi là mẫu mực, có ảnh hưởng lớn tới đời sau.
Một số bản dịch tiêu biểu phải kể đến như: Lam sơn thực lục, Đại Việt sử ký toàn thư, Nam hoa kinh, Ly tao, thơ Đỗ Phủ, Mái tây (Tây sương ký), Thượng thư (kinh Thư) và Sử ký. Hoàng Phạm Trân cũng có ý định dịch và phát hành Đạo đức kinh với Hồng lâu mộng vào năm 1945 nhưng không thành.
Nguyễn Duy Long (sn 1997)
Từng theo học tại khoa Ngôn ngữ học, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
4. CÁC TRÍCH ĐOẠN TIÊU BIỂU
Tín thường nói chuyện với Tiêu Hà. Hà lấy làm kỳ. Vua Hán đến Nam Trịnh, các tướng cùng quân đều ví von mong về đông, nhiều kẻ trốn dọc đường. Tín cũng trốn đi! Hà nghe theo Tín trốn, không kịp tâu vua, tự đi theo tìm. Có người thưa với nhà vua rằng:
– Quan Thừa tướng Hà trốn rồi!
Nhà vua cả giận, như mất tay phải, trái. Trong một hai ngày, Hà về ra mắt vua. Vua vừa giận, vừa mừng, mắng Hà rằng:
– Các tướng trốn đi kể có nghìn! Ông không đuổi theo ai, lại đuổi theo Tín, nói láo!
Hà nói:
– Các tướng dễ kiếm cả! Đến như Tín, hạng quốc sĩ trong đời không hai! Nếu nhà vua làm chúa mãi Hán Trung, thì chả cần dùng gì Tín! Còn như muốn tranh thiên hạ, trừ Tín ra, chả ai đáng tính việc cả!
(Sử ký – Hàn Tín khi về Hán, Nhượng Tống dịch)
Tháng Chạp, Hạng Vương tới Cai Hạ. Quân Hán và quân chư hầu bổ vây mấy vòng! Võ trong đêm nghe quân Hán bốn mặt đều hát giọng Sở, bèn giật mình mà rằng:
Giá BANANA